Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_doi_moi_ph.doc
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
- MỤC LỤC Nội dung Trang Mục lục 1 Phần 1: Mở đầu 2 1. Mục đích của sáng kiến 2 2 . Đóng góp của sáng kiến 3 Phần 2: Nội dung 4 Chương 1: Cơ sở khoa học của sáng kiến 4 1. Cơ sở lí luận 4 2. Cơ sở thực tiễn 4 Chương 2: Thực trạng sử dụng bản đồ tư duy trong dạy 5 học Ngữ văn 1. Thực trạng của việc học văn hiện nay 5 2. Nguyên nhân 6 Chương 3: Những giải pháp mang tính khả thi. 7 1. Hướng dẫn cách xây dựng bản đồ tư duy 7 2. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn 10 3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương 25 pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS Lãng Ngâm. Chương 4: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của 26 sáng kiến Phần 3: Kết luận 27 1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến trong sáng kiến 2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến 28 3. Kiến nghị 28 Phần 4: Phụ lục 30 Tài liệu tham khảo 30 1
- PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1. Mục đích của sáng kiến Hoạt động dạy học bao gồm công việc giảng dạy của giáo viên và việc học sủa học sinh. Bản chất của việc học là học sinh chiếm lĩnh tri thức thông qua bài dạy. Tri thức đó được học sinh tiếp cận, ghi nhớ và vận dụng chúng trong bài học cũng như thực tế đời sống hàng ngày. Ghi nhớ là một yếu tố quan trọng trong việc học tập của học sinh, tìm ra một phương pháp ghi nhớ có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động học tập của học sinh. Hướng dẫn học sinh tìm ra phương pháp ghi nhớ có hiệu quả trong học tập có vai trò quan trọng trong hoạt động dạy học của giáo viên. Trong quá trình dạy học nói chung, dạy Ngữ văn nói riêng, điều quan trong nhất là làm thức dậy được tình yêu, niềm say mê đối với môn học. Hiện nay, tri thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở lên quá tải với cả giáo viên và học sinh, điều này đã tạo ra hàng loạt những áp lực và nghịch lý: Thời gian có hạn mà kiến thức thì vô cùng; môn học thì quá tải mà sức học của học sinh có hạn. Những nghịch lý trên là những rào cản làm người dạy và người học đều thấy nản lòng. Vậy làm thế nào để có thể hạn chế được các rào cản trên? Trong giờ giảng Ngữ văn, vấn đề không chỉ là ngôn ngữ, lời bình của người thầy mà còn đòi hỏi phương pháp dạy học của người thầy. Phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự thành công trong giờ giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh. Bản đồ tư duy (BĐTD) là một trong những phương pháp dạy học tương đối hiệu quả. Phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy không chỉ giải quyết được vấn đề quá tải đối với kiến thức, đơn giản hóa kiến thức của môn học mà còn giúp học sinh có khả năng nhớ kiến thức lâu hơn, tránh sự nhàm chán đối với môn học, đặc biệt là bộ môn Ngữ văn. Để cung cấp một phương pháp ghi nhớ hiệu quả cho học sinh một cách bền vững sâu sắc và có hiệu quả cao trong quá trình dạy học, cá nhân tôi đã mạnh dạn sử dụng bản đồ tư duy trong quá trình dạy học. Vì vậy cá nhân tôi 2
- mạnh dạn đề xuất sáng kiến: " Sử dụng bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn” 2. Đóng góp của sáng kiến. Quá trình dạy Ngữ văn đối với học sinh trung học cơ sở ở nhiều hệ thống lớp khác nhau, nhiều đối tượng học sinh có khả năng tư duy khác nhau trong trường THCS Lãng Ngâm. Tôi đã đưa sáng kiến vào việc giảng dạy buổi sang và hoạt động dạy bồi dưỡng buổi chiều, so sánh với những năm trước tôi nhận được nhiều tín hiệu tích cực từ phía học sinh: - Tạo ra hoạt động của các nhóm học tập. Các thành viên của nhóm cùng nhau xây dựng ý tưởng cho quá trình tư duy, tạo ra không khì học tập vui vẻ và bổ ích cho học sinh. Quá trình học trên lớp người dạy đặt học sinh vào trung tâm của hoạt động dạy học, giáo viên là người hướng dẫn hỗ trợ những khó khăn đặt ra trong hoạt động học tập của học sinh. - Đóng góp một cách tiếp cận mới trong dạy và học môn Ngữ văn cho học sinh, tạo ra sự hứng thú trong những vấn đề tưởng chừng như dài, khó nhớ thành những hình ảnh và màu sắc mềm mại, dễ nhận biết trong tư duy thông qua những hình ảnh, sắc màu có tính gợi mở và liên tưởng cao. - Đẩy mạnh hoạt động học tập của học sinh, phương pháp đưa ra tăng hứng thú học tập góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn trong trường THCS Lãng Ngâm. - Tạo ra một tài liệu tham khảo trong quá trình dạy và học cho các thành viên trong tổ, sáng kiến còn có thể được lan tỏa cho các bộ môn khác áp dụng trong quá trình giảng dạy ở trên lớp cũng như trong quá trình dạy học bồi dưỡng ôn thi. 3
- PHẦN 2. NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở khoa học của sáng kiến 1. Cơ sở lí luận: Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thể hiện rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường trung học. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống. Thế hệ học sinh ngày nay rất ít em có thiện chí, hứng thú trong việc học môn Ngữ văn, chưa nắm được vai trò quan trọng của môn Ngữ văn đối với đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Vì thế đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức vừa hiệu quả vừa tạo được hứng thú cho học sinh đối với môn Ngữ văn là rất cần thiết. 2. Cơ sở thực tiễn: Trong quá trình giảng dạy và bồi dưỡng ôn thi đối với một số giáo viên mới tham gia giảng dạy đôi khi chưa giúp cho học sinh ghi nhớ được kiến thức đã học.Việc tiếp cận kiến thức trong nhiều phần còn chung chung chưa thể hiện rõ trọng tâm làm học sinh không nắm chắc được kiến thức. Đối với trường Trung học cơ sở Lãng Ngâm, công tác giảng dạy luôn được Ban giám hiệu và nhà trường quan tâm một cách đặc biệt. Điều đó đòi hỏi người dạy phải tìm ra các phương pháp giảng dạy hiệu quả nhằm phù hợp với đa dạng các đối tượng học sinh khác nhau, kích thích sự sáng tạo của học sinh, nhằm nâng cao chất lượng học sinh trong nhà trường. 4
- Đồng thời, năm học 2014 - 2015 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn trong các nhà trường phổ thông. Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại nhất được đưa vào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy - một phương pháp dạy học mới đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ văn. Vậy thế nào là phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy? Cần sử dụng bản đồ tư duy như thế nào để nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được chia sẻ với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này . Chương 2: Thực trạng sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ văn 1. Thực trạng của việc học văn hiện nay: Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói: "Văn học là nhân học". Vậy mà một thực trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy cũng như chấm trả các bài kiểm tra Ngữ văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể hiện tâm lý chán học văn của học sinh, cụ thể là: - Học sinh thờ ơ với việc học văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho 5
- các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định hướng khối A thì thật là nguy hại. - Kỹ năng trình bày: Khi học sinh tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài văn diễn đạt tối nghĩa, lủng củng, Đây là một tình trạng đã trở nên phổ biến và thậm chí là đáng báo động trong xã hội ta. Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất. 2. Nguyên nhân: a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau : - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. - Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, nội dung kiến thức sách giáo khoa nhiều 6
- ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của giáo viên, việc tiếp thu bài học của học sinh cũng bị hạn chế. - Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học. - Đời sống giáo viên còn nhiều khó khăn, đầu tư ngân sách cho các hoạt động giáo dục của nhà trường còn hạn chế, các tiêu chí thi đua đề ra quá cao, không có tính thực thi vì thế không phát huy hết được nội lực của giáo viên. b. Đối với học sinh: - Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, không tập trung nghe giảng, lười suy nghĩ, hổng kiến thức nên không chủ động, tích cực và có tâm thế tốt cho giờ học Ngữ văn. - Địa phương xã Lãng Ngâm hầu hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, hoặc mở may, cắt may ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học. - Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game, chat, học sinh tụ tập chơi bời ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập. Chương 3: Những giải pháp mang tính khả thi 1. Hướng dẫn cách xây dựng bản đồ tư duy cho học sinh Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Bản đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. 7
- Bản đồ tư duy giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy học giúp học sinh có được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Bản đồ tư duy - giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng bản đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Sử dụng bản đồ tư duy là sử dụng những hình khối, đường nét, màu sắc để phát triển định hướng và ghi nhớ những khối lượng có liên quan. Theo các nghiên cứu của các nhà khoa học thì mỗi một hình ảnh có tính gợi mở cao nó tương đương với hàng nghìn từ để miêu tả vấn đề mà ta cần ghi nhớ. Do đó khi vẽ bản đồ tư duy cần thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Vẽ ý tưởng trung tâm - Ý tưởng trung tâm là vấn đề chính mà chúng ta đang quan tâm tới. Biểu diễn ý tưởng trung tâm hãy vẽ một hình ảnh hoặc chữ liên quan tới chủ đề mà chúng ta đề cập. Tuy nhiên dùng hình ảnh có ý nghĩa hơn cả vì nó có tính biểu tượng và gợi mở cao hơn rất nhiều so với dùng từ ngữ. Bước 2: Vẽ các nhánh chính - Các nhánh chính là các ý tưởng phát triển trên nền tảng là chủ đề trung tâm. Nó có thể là những kiến thức mà chúng ta đã được học và cần ghi nhớ, cũng có thể là các dạng bài tập và phương pháp làm tương ứng của dạng bài 8
- văn đó mà ta xét có liên quan tới chủ đề chính. Vẽ theo cách nào đó theo ý tưởng của mỗi cá nhân hoặc là sự thống nhất của nhóm sao cho nó có tính gợi mở cao và hiệu quả nhất trong việc ghi nhớ, quan trọng hơn là đừng nghĩ tới nguyên tắc mà sáng tạo theo cách tư duy tự nhiên. - Trên các nhánh chính này là các từ khóa ngắn gọn và mang tính chất gợi ý. Hãy vẽ thêm hình ảnh gì đó mang tính minh họa. Bước 3: Vẽ các nhánh thứ cấp - Đây là các nhánh được vẽ ra từ nhánh chính. Nó bổ sung ý cho nhánh chính. Chúng ta có thể vẽ thêm nhiều nhánh thứ cấp đều được, tuy nhiên cần quan tâm tới không gian mà chúng ta được cung cấp. - Tương tự như nhánh chính, các chữ trên nhánh thứ cấp cũng là các từ khóa mang tính gợi nhớ. Và hãy cho thêm hình ảnh vào để thêm phần sinh động. Nguyên lý quan trong trong dạy học bằng bản đồ tư duy là nó dựa trên sự liên tưởng "ý này gợi mở ý kia" tạo ra không gian vô tận trong học tập và sáng tạo của học sinh. 9
- Có những cách khác để vẽ bản đồ tư duy, việc chia nhỏ từng bước tùy vào những tình huống hay yêu cầu của từng vấn đề mà ta cần mô tả. 2. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn: a) Sử dụng Bản đồ tư duy để kiểm tra bài cũ: Giáo viên đưa ra một từ khoá nêu lên nội dung kiến thức của bài cũ rồi yêu cầu học sinh vẽ bản đồ tư duy bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em tìm ra các nội dung liên quan đến từ khóa đó để các em có thể vẽ các nhánh con và hoàn thiện bản đồ tư duy. Qua bản đồ tư duy đó, học sinh sẽ nhớ lại các nội dung đã học và từ đó khắc sâu kiến thức. Ví dụ: Khi dạy bài “ Nói giảm nói tránh” - Ngữ văn 8, thay vì kiểm tra bài cũ bằng cách đặt câu hỏi cho học sinh trả lời hoặc cho học sinh làm một bài tập nào đó rồi cho điểm. Giáo viên sẽ cho từ khoá “NÓI QUÁ” rồi yêu cầu học sinh vẽ bản đồ tư duy trên bảng bằng cách đặt câu hỏi khác gợi ý để học sinh có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ (nhánh con cấp 2, cấp 3 ), sau khi học sinh vẽ xong, em sẽ thuyết trình trước lớp. Các học sinh khác theo dõi, nhận xét, bổ sung nếu cần thiết. Giáo viên sẽ nhận xét và cho điểm. Qua đó, giúp các em tự ôn lại kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh. 10
- Bản đồ tư duy bài “ Nói quá” – Ngữ văn 8 Qua cách làm này, tôi nhận thấy học sinh rất thích thú khi được kiểm tra bài cũ bằng cách vẽ bản đồ tưu duy. Các em nhớ lại kiến thức và vẽ được bản đồ nhanh chóng và nhớ rất lâu. b) Vận dụng bản đồ tư duy vào việc hỗ trợ dạy học kiến thức mới: Tôi đã sử dụng bản đồ tư duy như là một đồ dùng trực quan phục vụ cho việc giảng bài mới. Đặc biệt khi dạy bằng giáo án điện tử. Đối với việc dạy bài mới, để sử dụng bản đồ tư duy có hiệu quả, tôi phải chuẩn bị bài kĩ ở nhà. Từ nội dung bài học, tôi đúc kết thành một bản đồ tư duy rồi vẽ trên máy (nếu dạy bằng giáo án điện tử) hoặc trên giấy roki (nếu dạy giáo án thường). Khi lên lớp, tôi sẽ sử dụng bản đồ tư duy đó để hướng dẫn học sinh khai thác từng nội dung của bài học. Mỗi nội dung ứng với một nhánh con của bản đồ tư duy. 11
- Dùng bản đồ tư duy, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi ý để học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, tránh được cách dạy học truyền thống là giáo viên giảng, học sinh nghe, ghi chép một chiều. Như vậy, tính tích cực và sáng tạo của học sinh sẽ được phát huy, lớp học sẽ sinh động hơn, giúp các em thích học môn văn hơn. Cách vận dụng bản đồ tư duy vào việc hỗ trợ dạy học kiến thức mới: Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các từ liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện bản đồ tư duy. - Giáo viên dùng những phương tiện sẵn có của một lớp học bình thường như: bảng đen, bảng phụ, phấn màu,bút màu , giấy A4 hoặc A0. - GV có thể dùng phấn màu vẽ trực tiếp lên bảng (nếu có khả năng vẽ được). Giáo viên có thể dùng máy hoặc thực hiện các thao tác trên bằng tay, có thể vẽ trên giấy A4 hoặc A0 bằng bút màu. - Giáo viên có thể vẽ trước một BĐTD chỉ có các nhánh. GV giảng tới đâu thì hướng dẫn cho học sinh điền chữ tới đó. Qua BĐTD đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng. Ví dụ 1: Với văn bản: “Thầy bói xem voi” (Môn Ngữ văn lớp 6), sau phần đọc và tìm hiểu chung, giáo viên có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung, kiến thức của bài học. Để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của bài học, giáo viên sử dụng hệ thồng câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức: 12
- + Bố cục của văn bản: Học sinh sẽ dựa vào văn bản để xác định các ý chính (Hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy nhận xét về con voi, hậu quả.) + Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở (các thầy xem voi trong hoàn cảnh nào, cách xem voi của các thầy ra sao, ). Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xé về kết quả của cách xem voi phiếm diện để khái quát thành bài học về cách nhìn nhận đánh giá sự vật, hiện tượng Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi - Ngữ văn 6 13
- Ví dụ 2: Khi học bài “So sánh” (Môn Ngữ văn lớp 6), đầu giờ học, giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, sau đó dẫn dắt vào bài học. Giáo viên ghi nhan đề bài học lên bảng, khái quát lại các phương diện kiến thức cần tìm về các phép tu từ đã học ở tiết học trước. Ở tiết học so sánh này ta cũng tìm hiểu kiến thức qua các phương diện: Khái niệm, cấu tạo, tác dụng và các kiểu so sánh. Từ việc khái quát kiến thức cơ bản về so sánh, Giáo viên lần lượt hoàn thiện BĐTD trên bảng thông qua ngữ liệu mẫu sách giáo khoa. Việc hoàn thiện BĐTD phải có sự phối hợp giữa giáo viên và học sinh. Đầu giờ giáo viên cho từ khoá “So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đưa ra các tình huống qua hệ thống câu hỏi phát hiện, gợi mở, khái quát cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ (nhánh con cấp 2, cấp 3 ). Học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động dạy học do giáo viên tổ chức: cá nhân, nhóm, thảo luận Sau khi các cá nhân, các nhóm học sinh vẽ xong, giáo viên mời một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh. Bản đồ tư duy bài “So sánh” - Ngữ Văn 6 14
- Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học - trung tâm bản đồ tư duy. Giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên bản đồ tư duy. Không những cung cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, bản đồ tư duy còn giúp cho học sinh nhìn nhận đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra sự liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài tức tìm ra mạch lôgic của bài học. Sau khi hoàn thiện, học sinh nhìn vào bản đồ là có thể tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài học. Đồng thời học sinh cũng có thể khẳng định được toàn bộ dung lượng kiến thức của bài, xác định ý chính, ý phụ và lên kế hoạch học tập hiệu quả. Trong quá trình dạy bài mới, tùy theo tiết dạy và thời gian, tôi còn cho học sinh thảo luận nhóm bằng cách vẽ bản đồ tư duy theo các bước sau: - Học sinh lập bản đồ tư duy theo nhóm với sự gợi ý của giáo viên. - Học sinh đại diện của các nhóm lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. - Học sinh khác thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Ví dụ 3: Khi dạy bài Ví dụ khi dạy bài “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt” - Ngữ văn 6 tôi cho học sinh thảo luận bằng cách vẽ bản đồ tư duy nêu rõ cấu tạo từ Tiếng Việt. Học sinh đã thảo luận và vẽ được nhiều bản đồ tư duy khác nhau. Dưới đây là một bản đồ tư duy của một nhóm thảo luận ở lớp 6A đã vẽ: 15
- Bài vẽ của học sinh: Bản đồ tư duy bài “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt” Mỗi học sinh có một ý tưởng vẽ sơ đồ tư duy khác nhau nhưng đều nhằm ghi nhớ rõ nội dung bài học. Và dưới đây là sơ đồ tư duy của một bạn học sinh nhóm khác lớp 6A đã vẽ: 16
- Bài vẽ của học sinh: Sơ đồ tư duy bài “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt” Học sinh sẽ căn cứ vào bản đồ tư duy mà nhóm mình thảo luận vẽ ra để thuyết trình về cấu tạo từ Tiếng Việt. Các học sinh khác bổ sung, nhận xét. Cuối cùng, giáo viên sẽ sửa chữa và rút ra nội dung bài học. Giáo viên có thể chiếu bản đồ tư duy đã vẽ lại trên máy như sau: 17
- Bản đồ tư duy bài “Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt”- Ngữ văn 6 Qua cách làm này, tôi nhận thấy học sinh nắm bài rất nhanh và tiết học có hiệu quả cao. c) Vận dụng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần : Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ bản đồ tư duy trên giấy A4 hoặc trên bảng. Sau đó giáo viên mời một vài em lên bảng thuyết minh lại theo bản đồ tư duy của mình những kiến thức đã tiếp thu được và cho HS cả lớp nhận xét, rút kinh nghiệm. Thực hiện bản đồ tư duy như vậy sẽ giúp cho giáo viên nắm được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh, và học sinh cũng nắm vững kiến thức và nhớ lâu hơn. 18
- Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ví dụ 1: Ở lớp 6, trong bài “Phương pháp tả cảnh”, sau khi học xong kiến thức lí thuyết, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về phương pháp tả cảnh bằng bản đồ tư duy. Đặc trưng của tiết học này là tìm hiểu kiến thức lí thuyết về phương pháp tả cảnh rồi từ đó hướng dẫn học sinh làm các bài tập. Vì vậy bản đồ tư duy sẽ giúp các em có cái nhìn tổng quát hơn về lí thuyết phương pháp làm bài văn tả cảnh Việc sử dụng bản đồ tư duy trong tiết làm văn nói riêng, trong môn Ngữ văn nói chung không chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến thức mà còn giúp củng cố kỹ năng nhận biết và kỹ năng thực hành. Học sinh nắm được kiến thức lí thuyết mới có thể vận dụng vào thực hành, làm các bài tập. Với kiểu bài này, giáo viên nên tạo ra các nhóm học tập thực hiện việc vẽ bản đồ tư duy, sau đó đại diện các nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét, bổ sung. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức. Bản đồ tư duy bài “Phương pháp tả cảnh”- Ngữ văn 6 19
- Ví dụ 2: Khi tìm hiểu tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, giáo viên định hướng để học sinh khai thác kiến thức của bài học bằng hệ thống câu hỏi gợi mở. Trên cơ sở đó hình thành và củng cố kiến thức cho học sinh bằng bản đồ tư duy. Hệ thống kiến thức của bài học bao gồm: a. Tác giả bao gồm: Tiểu sử (thân thế, gia đình), cuộc đời, sự nghiệp sáng tác b. Tác phẩm: + Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du ở cả hai thành phần chữ (chữ Hán và chữ Nôm gồm cả thơ và truyện) + Thời gian và hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc của tác phẩm; đồng thời giáo viên giúp học sinh hiểu được vì sao Truyện Kiều có nguồn gốc từ Trung Quốc mà vẫn được coi là tác phẩm văn học Việt Nam, + Tóm tắt Truyện Kiều: Bố cục của Truyện Kiều (Gặp gỡ và đính ước; gia biến và lưu lạc. đoàn tụ) + Giá trị của Truyện Kiều: Giá trị nội dung (giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo); giá trị nghệ thuật của truyện. Bản đồ tư duy bài “Truyện Kiều”- Ngữ văn 9 20
- Đối với bài ôn tập hoặc tổng kết nhiều kiến thức, giáo viên có thể vẽ trước ở nhà hoặc có thể hướng dẫn học sinh vẽ bằng giấy A0, mang đến lớp sử dụng trong tiết học. Ví dụ 3: Ở lớp 9, trong bài “ Tổng kết ngữ pháp”, học sinh có thể dễ dàng tổng hợp kiến thức về từ loại tiếng Việt bằng bản đồ tư duy dựa vào tập bản đồ tư duy đã có về từ loại đã học ở lớp dưới. Đặc trưng của tiết học này là ôn tập, khái quát lại kiến thức đã học vì vậy bản đồ tư duy sẽ giúp các em có cái nhìn tổng quát hơn về từ ngữ tiếng Việt. Việc sử dụng bản đồ tư duy trong tiết tổng kết văn học nói chung, trong phân môn tiếng Việt nói riêng không chỉ có tác dụng khái quát hóa kiến thức mà còn giúp củng cố kỹ năng nhận biết và kỹ năng thực hành. Tổng kết ngữ pháp ở lớp 9 được coi là giờ thực hành. Vì vậy giáo viên cần linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức học tập. Với kiểu bài này, giáo viên nên tạo ra các nhóm học tập thực hiện việc vẽ bản đồ tư duy, sau đó đại diện các nhóm trình bày bài làm của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét, góp ý, bổ sung thêm cho bài làm. Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức. Bản đồ tư duy bài “Tổng kết ngữ pháp”- Ngữ văn 9 21
- Ví dụ 4: Bài “Tổng kết từ vựng” - Tiếng Việt lớp 9 giáo viên có thể hương dẫn học sinh vẽ bản đồ tư duy như sau: Bản đồ tư duy bài “Tổng kết từ vựng”- Ngữ văn 9 Đây là những hình ảnh được vẽ bằng phần mềm Mindmap mà tôi tham khảo từ đồng nghiệp trên thư viện violet. Việc sử dụng phần mềm Mindmap không dễ, tuy nhiên chúng ta có thể đơn giản hóa phương pháp trên qua sơ đồ hình nan quạt, xương cá, mô hình Việc sơ đồ hóa kiến thức trong tiết dạy Ngữ văn chắc chắn sẽ gúp học sinh nhớ kiến thức lâu hơn, hệ thống hơn. 22
- d) Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic. Học sinh tự có thể sử dụng bản đồ tư duy để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ bản đồ tư duy trên giấy, bìa hoặc để tư duy một vấn đề mới. Qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. Dưới đây là những Bản đồ tư duy mà học sinh đã vẽ ở nhà, được biến tấu thành những bình hoa, những cây hoa theo sự sáng tạo của mỗi em. Bản đồ tư duy bài “Dấu ngoặc kép” - Ngữ Văn 8 23
- Bản đồ tư duy bài “Từ tượng thanh, Từ tượng hình” - Ngữ Văn 8 Đặc biệt, nếu gia đình học sinh nào có điều kiện thì các em có thể trực tiếp làm việc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả năng ứng dụng Công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập. Tóm lại, Thiết kế và sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên Bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. 24
- Với những ưu điểm của mình, bản đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh. Bước quan trọng nhất là giáo viên giúp học sinh phát hiện, tìm kiếm được trung tâm bản đồ - trọng tâm bài học. Sau đó theo nguyên lí bản đồ tư duy là ý nọ gợi ý kia dần dần giúp học sinh khám phá kiến thức bài học. Bằng trí tưởng tượng cùng sự tập hợp kiến thức từ các nguồn, học sinh phải biết cách phân tích tìm ra những từ khóa, hình ảnh chính xác nhất. Khi các nhánh lớn được xây dựng giáo viên cũng nên hướng dẫn học sinh sắp xếp theo thứ tự quan trọng bằng cách đánh số ở đầu mỗi nhánh. Điều đó giúp học sinh dễ dàng ôn tập sau này. Cứ làm việc theo cách đó học sinh sẽ biết cách tự mình vận động, tìm tòi khám phá, lĩnh hội tri thức một cách có hiệu quả. 3. Một số biện pháp ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở trường THCS Lãng Ngâm. a) Nâng cao nhận thức của giáo viên và học sinh về vai trò của bản đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học Nhà trường đã tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để tuyên truyền, giới thiệu cho giáo viên về vai trò, tác dụng của bản đồ tư duy trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Từ đó giáo viên nâng cao nhận thức và tuyên truyền, phổ biến tới học sinh theo môn học của mình. b) Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học. - Quán triệt quan điểm chỉ đạo về đổi mới phương pháp dạy học; - Nắm vững cấu trúc chương trình sách giáo khoa mới; - Nắm vững nội dung đổi mới phương pháp dạy học; - Tích cức dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm với đồng nghiệp; - Tham dự sinh hoạt chuyên môn cụm, tổ đầy đủ, hiệu quả. c) Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng sử dụng bản đồ tư duy cho giáo viên Người giáo viên có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Do đó muốn ứng dụng bản đồ tư duy trong đổi mới 25